Tiểu Sử và Hành Trạng của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Hạnh (1945-2024)
Tiểu Sử và Hành Trạng
của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Quảng Hạnh
(1945-2024)
Nối dòng thứ 11 Thiền Phái Liễu Quán.
Khai sơn Trú Trì Chùa Đức Sơn và Tịnh Thất Từ Nghiêm
☸☸☸
I. Thân Thế
Hoà Thượng thế danh TRẦN SỬU, xuất thế năm Ất Dậu (1945) tại thôn Đông Yên, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thân phụ là cụ ông Trần Viết Phiên, tự: Trần Vọng. Thân mẫu là cụ bà Võ Thị Điểm, pháp danh: Thị Hồng. Hòa Thượng là con út trong gia đình có 8 anh chị em.
II. Xuất Gia Tu Học
Thân phụ mất sớm, Hòa Thượng được sự nuôi dưỡng, thương yêu, đùm bọc, chở che của thân mẫu và các anh chị em. Vào năm 1958, nhân có đoàn Hoằng pháp của Hoà Thượng Pháp Sư thượng Đồng hạ Từ đến Quảng Nam và hội đủ duyên lành, chư Phật tử tại địa phương đã mượn ngôi nhà của thân mẫu Hòa Thượng thiết lập pháp tràng, cung thỉnh Hòa Thượng Pháp Sư về giảng pháp. Vốn có túc duyên sâu dày với Phật pháp, nên Hòa Thượng liền phát tâm xuất gia; khi ấy, Hòa Thượng mới 13 tuổi, được sự chấp thuận của thân mẫu, nên được Hòa Thượng Pháp Sư tiếp nhận làm đệ tử. Sau đó, Hòa Thượng được Hòa Thượng Pháp Sư đưa vào Tu viện Nguyên Thiều, Bình Định thế phát xuất gia và ban cho pháp danh: Quảng Hạnh. Hòa Thượng đã được Hòa Thượng bổn sư tận tình thương yêu dạy dỗ. Nhưng vì Phật sự quá đa đoan, nên Hòa Thượng bổn sư đã gởi gắm Ngài cho Hoà Thượng thượng Đồng hạ Thiện tiếp tục dạy dỗ.
Từ năm 1959 - 1964, Hoà Thượng đến tu học và tham dự các khóa học Phật học tại Tổ đình Long Khánh, thành phố Quy Nhơn.
- Năm 1963, Hòa Thượng được Hòa Thượng bổn sư cho phép thọ giới Sa-di, và ban cho pháp tự: Minh Tánh.
- Năm 1965, Hòa Thượng đổ tú tài toàn phần.
- Năm 1968, Hòa Thượng được Hòa Thượng bổn sư cho phép đăng đàn thọ Cụ Túc Giới, tại giới đàn Tổ đình Long Khánh - Quy Nhơn do Hòa Thượng thượng Phúc hạ Hộ làm Hòa Thượng Đường đầu. Và được Hòa Thượng bổn sư ban pháp hiệu: Hoằng Trị, nối pháp đời thứ 11 Thiền phái Liễu Quán.
- Năm 1967 – 1969, Hòa Thượng tu học tại Tổ đình Phước Lâm, Hội An, Quảng Nam. Trong thời gian này, Hòa Thượng làm giáo thọ sư Phật Học Viện Quảng Nam tại Tổ đình Long Tuyền, Hội An và tham gia giảng dạy tại trường Trung Học Bồ Đề Hội An.
- Năm 1969, Hòa Thượng dự học tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang. Cùng năm ấy, Hòa Thượng ra Huế dự khóa Cao Đẳng Phật Học Chuyên Khoa Liễu Quán tại chùa Linh Quang – Huế đến năm 1972.
- Năm 1972 – 1975, Hòa Thượng tu học tại chùa Giác Uyển, Sài Gòn.
- Năm 1975, Hòa Thượng tu học tại chùa Vạn Hạnh, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Sau năm 1975, Hòa Thượng về lại quê hương Quảng Nam theo chính sách hồi hương của nhà nước. Hòa Thượng tịnh tu tại Chùa Lầu, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên. Đến năm 1980, Hòa Thượng vào lại miền Nam chữa bệnh và được quý đồng hương Phật tử khu Bảy Hiền cung thỉnh Hòa Thượng làm Cố Vấn Giáo Hạnh chùa Phổ Hiền, quận Tân Bình, thành phố Sài Gòn.
III. Tiếp Tăng, Độ Chúng
Năm 1982, Hòa Thượng tịnh tu và chăm sóc mẹ già tại Tịnh thất Từ Nghiêm - Đại Tòng Lâm, thị trấn Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong thời gian này, Hòa Thượng mở các lớp Hán văn, Phạn ngữ và Phật học cho tứ chúng đến tham học. Đến khi Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm – tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thành lập, Hòa Thượng được cung thỉnh làm giáo thọ sư.
Năm 1989, Hòa Thượng khai sơn chùa Đức Sơn, xã Hắc Dịch, huyện Châu Thành, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, và tiếp tăng độ chúng, hướng dẫn Phật tử tu học. Tính đến nay tăng chúng đệ tử xuất gia có đến 78 vị tỳ kheo và hàng ngàn đệ tử tại gia.
Năm 1990, Hòa Thượng khởi xướng vận động đồng hương Phật tử trùng kiến Chùa Lầu tại xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Vào năm 1995, trong lễ lạc thành Chùa Lầu, Hòa Thượng đã lưu lại hai câu thơ:
“Chùa Lầu đứng vững như xưa
Ngũ thôn tên cũ hương thừa còn bay”.
Năm 2003, Đại hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tại Tu viện Nguyên Thiều, Hòa Thượng được cung thỉnh đảm nhiệm vai trò Tổng vụ trưởng Tổng Vụ Tăng sự.
Từ năm 2016 trở đi, Hòa Thượng cắt đứt chư duyên, nhập thất miên mật hành trì.
IV. Công Trình Biên Soạn, Dịch Thuật
Mặc dù Phật sự đa đoan, nhưng Hòa Thượng đã dành thời gian quý báu để nghiên cứu, dịch thuật, lưu lại những tác phẩm có giá trị:
- Năm Bài Minh Chú Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm (dịch từ Phạn ngữ).
- Sử Thi Người Chơi Đẹp Tuyệt Vời (dịch từ tiếng Hán tác phẩm Phật Sở Hành Tán của Mã Minh Bồ-tát). Hai công trình biên soạn dịch thuật này, Hòa Thượng lấy bút hiệu Thích Quảng Hạnh.
Ngoài ra, Hòa Thượng sáng tác rất nhiều thơ, văn và nhạc với bút hiệu Người Chơi Đẹp, Trúc Xanh... Các tác phẩm tiêu biểu như:
- Về nhạc: Con đường Tâm Thể, Tuyết Sơn, Hương Xưa Lý Trần, Cây Trúc Xanh, Người Đã Đến, v.v…
- Về Thơ: Tập thơ Tiếng Vượn Trầm, gồm thơ, nhạc và thủ bút (bản cảo).
V. Những Ngày Cuối Đời
Từ năm 2024 (Giáp Thìn), tuy sức khỏe khiếm an nhưng tâm trí Ngài rất minh mẫn. Hàng đệ tử thay phiên về chăm sóc thân cận bên Hòa Thượng. Đệ tử xuất gia, tại gia đến thăm và thưa hỏi việc tu tập, Hòa Thượng đều dạy: “Hãy giữ giới luật làm hàng đầu.”
Tháng 09 năm 2024 (Giáp Thìn), có chút bệnh duyên, môn hạ chăm sóc chu đáo, thân cận ngày đêm bên Hòa Thượng. Khi hoá duyên đã mãn, Hòa Thượng vượt qua năm uẩn về cõi Tịnh quang, an tường như sương tan vào nắng sớm, vào lúc 23 giờ 45 phút, ngày 03 tháng 10 năm 2024 (Nhằm ngày mùng 01 tháng 09 năm Giáp Thìn) tại Phương trượng chùa Đức Sơn, phường Hắc Dịch, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong sự quây quần đầm ấm của đệ tử và trong tiếng niệm Phật thâm trầm của Tăng Ni và Phật tử.
Trụ thế: 80 năm; 56 Giới lạp.
“Mê ngộ không hai nẻo
Sỉnh tử chẳng đôi bờ
An nhiên và tự tại
Hiện thành dòng suối thơ.”
Cả cuộc đời thanh tu, đạm bạc, giản dị, giới đức trang nghiêm, không màng danh lợi, với tâm vị tha hành đạo độ sanh của Hòa Thượng, là tấm gương sáng cho môn nhân tứ chúng noi theo. Sự ra đi của Hòa Thượng là nỗi đau mất mát lớn, là niềm tiếc thương vô hạn của môn nhân pháp quyến chúng con.
NAM MÔ VIỆT NAM PHẬT GIÁO LIỄU QUÁN THIỀN PHÁI, ĐỆ THẬP NHẤT THẾ, ĐỨC SƠN, TỪ NGHIÊM ĐƯỜNG THƯỢNG,
húy thượng QUẢNG hạ HẠNH, tự MINH TÁNH, hiệu HOẰNG TRỊ, GIÁC LINH HÒA THƯỢNG.
THUỲ TỪ CHỨNG GIÁM
ĐỆ TỬ PHÁP QUYẾN CHÙA ĐỨC SƠN – TỊNH THẤT TỪ NGHIÊM
ĐỒNG KHỂ THỦ KÍNH BÁI

