Phật Thuyết Kinh Bảy Đức Phật | 佛說七佛經

大正新脩大藏經 第01冊
No.2 七佛經 (1卷)
【宋 法天譯】
第 1 卷

No. 2 [No. 1(1), Nos. 2, 4]

佛說七佛經

西天譯經三藏朝散大夫試鴻臚卿傳教大師臣法天奉 詔譯
如是我聞:

一時,佛在舍衛國祇樹給孤獨園。爾時有大苾芻眾,持鉢食時詣迦里梨道場,共坐思惟:「過去世時有何佛出現,族姓壽量其義云何?」如是思已,互相推問而不能知。

爾時,世尊知此苾芻思惟是事,即從座起,詣迦里梨道場,結跏趺坐。時諸苾芻,頭面禮足住立一面,合掌恭敬一心瞻仰。

世尊問曰:「汝諸苾芻,於意云何?」苾芻答言:「我等思惟,過去世中有何佛出世?族姓壽量皆不能知。」佛告諸苾芻:「汝等樂聞。」苾芻答言:「今正是時,願為宣說。」

Số 2 [Số 1(1), Số 2, 4]

Phật Thuyết Kinh Bảy Đức Phật

Tam Tạng Pháp sư Pháp Thiên, triều Tống, người Tây Thiên, phụng chiếu chỉ dịch.

Tôi nghe như vầy:

Một hôm, Đức Phật ở tại nước Xá Vệ, trong vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc. Bấy giờ, có đại chúng Tỳ-kheo, đến giờ khất thực, đến đạo tràng Ca Lý Lê, cùng ngồi lại suy nghĩ:

“Trong các đời quá khứ, có những Đức Phật nào đã xuất hiện? Dòng họ là gì? Tuổi thọ thế nào? Giáo nghĩa của Phật là gì? Sau khi suy nghĩ như vậy, chư vị cùng nhau hỏi, nhưng không ai biết được.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết các Tỳ-kheo đang suy nghĩ về việc này, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến đạo tràng Ca Lý Lê, ngồi kiết già. Khi ấy, các Tỳ-kheo đầu mặt đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên, chắp tay cung kính, một lòng chiêm ngưỡng Phật. 

Đức Thế Tôn hỏi:

“Tỳ-kheo, các thầy đang nghĩ điều gì?

Các Tỳ-kheo thưa:

“Chúng con đang suy nghĩ: “Vào thời quá khứ có Đức Phật nào ra đời? Thuộc dòng họ nào? Sống thọ bao lâu? Nhưng chúng con đều không biết.”

Phật dạy các Tỳ-kheo:

“Các thầy có muốn nghe chăng?”

Các Tỳ-kheo đáp:

“Nay đúng là lúc, xin Đức Thế Tôn giảng nói.”

佛言:「汝等諦聽,我今說之。過去九十一劫,有毘婆尸佛、應、正等覺,出現世間。三十一劫,有尸棄佛,毘舍浮佛、應、正等覺,出現世間。於賢劫中第六劫,有俱留孫佛、應、正等覺,出現世間。第七劫,有俱那含牟尼佛、應、正等覺,出現世間。第八劫,有迦葉波佛、應、正等覺,出現世間。第九劫,我釋迦牟尼佛,出世間,應、正等覺。復次過去劫中,毘婆尸佛、尸棄佛、毘舍浮佛,宣說尸羅清淨戒律,成就智慧最上之行。

Phật dạy: “Các thầy hãy lắng nghe cho kỹ, nay ta nói.” Vào quá khứ, chín mươi mốt kiếp về trước, có Đức Phật Tỳ Bà Thi là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Ba mươi mốt kiếp về trước, có Phật Thi Khí và Phật Tỳ Xá Phù, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, xuất hiện ở thế gian.

 Vào kiếp thứ sáu, trong thời Hiền Kiếp, có Phật Câu Lưu Tôn, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Vào kiếp thứ bảy, có Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Vào kiếp thứ tám, có Phật Ca Diếp, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở thế gian. Vào kiếp thứ chín, ta là Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở thế gian, là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lại nữa, trong các kiếp quá khứ, Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, và Phật Tỳ Xá Phù đã tuyên thuyết luật nghi thanh tịnh, thực hành đầy đủ con đường trí tuệ tối thắng.”

「復次賢劫中,俱留孫佛、俱那含牟尼佛、迦葉波佛,亦說清淨律儀及禪定解脫之法;我所說法,亦復如是。汝諸苾芻!過去毘婆尸佛,剎帝利姓,發淨信心,而求出家,成正覺道。尸棄佛、毘舍浮佛,亦剎帝利姓。俱留孫佛、俱那含牟尼佛、迦葉佛,婆羅門姓。我生淨飯王宮,剎帝利姓。」

Lại nữa, trong thời Hiền Kiếp, các Đức Phật Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, và Ca Diếp cũng đã tuyên thuyết luật nghi thanh tịnh, cùng pháp thiền định và giải thoát.

Pháp mà ta thuyết giảng cũng lại như thế. 

Này các Tỳ-kheo! Trong quá khứ, Phật Tỳ Bà Thi thuộc dòng Sát-đế-lợi (vua chúa), phát lòng tin thanh tịnh, cầu xuất gia và thành tựu đạo Chánh Giác. Phật Thi Khí và Phật Tỳ Xá Phù cũng thuộc dòng Sát-đế-lợi. Còn Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, và Phật Ca Diếp thì thuộc dòng Bà-la-môn. Còn Ta, sinh ra trong cung vua Tịnh Phạn, thuộc dòng Sát-đế-lợi.”

Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên 

Ta nói về đời trước,

Trong chín mươi mốt kiếp,

Có Phật Tỳ Bà Thi,

Xuất hiện ở thế gian.

Trong ba mươi mốt kiếp,

Thi Khí, Tỳ Xá Phù,

Đều bậc Chánh Đẳng Giác,

Thuộc dòng Sát-đế-lợi.

Phật Câu Lưu Tôn,

Thuộc dòng Bà-la-môn,

Câu Na Hàm Ca Diếp,

Dòng họ cũng như vậy.

Ta ở nơi Diêm-phù,

Là con vua Tịnh Phạn,

Dù chứng Bồ-đề Phật 

Cũng dòng Sát-đế-lợi.

爾時,世尊欲重宣此義,而說頌曰:

「我說過去世,  九十一劫中,
 時有毘婆尸,  出現於世間。
 三十一劫中,  尸棄、毘舍浮,
 如是正等覺,  皆姓剎帝利。
 俱留孫如來,  婆羅門之姓,
 俱那含、迦葉,  其姓亦復然。
 我處閻浮提,  而為淨飯子,
 雖證佛菩提,  亦姓剎帝利。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來、應、正等覺所有族號,毘婆尸佛、尸棄佛、毘舍浮佛,憍陳族。俱留孫佛、俱那含牟尼佛、迦葉波佛,迦葉族。釋迦如來,瞿曇族。」

Bấy giờ, Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy hãy lắng nghe! Nay Ta nói bảy vị Phật Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác: Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, thuộc dòng họ Kiều-trần. Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp thuộc dòng họ Ca-diếp. Và Phật Thích-ca Như Lai thuộc dòng họ Cù-đàm. 

Khi đó, Thế Tôn lại nói kệ rằng:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Thi-khí, Tỳ-xá-phù

Ba Phật kia thế đó

Đều dòng Kiều-trần-như 

Câu-lưu-tôn Như Lai

Câu-na-hàm, Ca-diếp

Ba vị Phật thế đó

Đều dòng dõi Ca-diếp

Ta ở cõi Diêm-phù

Sanh nơi cung Tịnh-phạn

Xuất gia chứng Bồ-đề

Là thuộc dòng Cù-đàm 

爾時,世尊重說頌曰:

「毘婆尸如來、  尸棄、毘舍浮,
 如是彼三佛,  悉是憍陳族。
 俱留孫如來、  俱那含、迦葉,
 如是彼三佛,  悉是迦葉族。
 我處閻浮界,  生於淨飯宮,
 出家證菩提,  是彼瞿曇族。」

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ ấy xong, bảo chúng tỳ kheo rằng:” Các thầy hãy lắng nghe! Nay ta lại nói bảy Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác thọ lượng dài ngắn. 

Đức Phật Tỳ Bà Thi (毘婆尸佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ tám vạn (80.000) tuổi.

Đức Phật Thi Khí (尸棄佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ bảy vạn (70.000) tuổi.

Đức Phật Tỳ Xá Phù (毘舍浮佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ sáu vạn (60.000) tuổi.

Đức Phật Câu Lưu Tôn (俱留孫佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ bốn vạn (40.000) tuổi.

Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni (俱那含牟尼佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ ba vạn (30.000) tuổi.

Đức Phật Ca Diếp (迦葉波佛), bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, xuất hiện ở thế gian, thọ hai vạn (20.000) tuổi.

Còn Ta (Đức Thích Ca Mâu Ni) giáo hóa chúng sinh ở đời năm trược, thọ trăm tuổi.

Bấy giờ Thế Tôn nói bài tụng rằng:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Thi-khí, Tỳ-xá-phù

Câu-lưu-tôn Thế Tôn

Câu-ba-hàm, Ca-diếp

Khi thị hiện ở đời 

Tuổi thọ của mỗi vị

Tám vạn, rồi bảy vạn 

Sáu vạn xuống bốn vạn

Ba vạn đến hai vạn

Như thế Phật Thích Ca

Hiện nơi đời năm trược 

Người thọ một trăm tuổi 

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來、應、正等覺壽量長短。毘婆尸佛、應、正等覺出現世間,壽八萬歲。尸棄佛、應、正等覺,出現世間,壽七萬歲。毘舍浮佛、應、正等覺,出現世間,壽六萬歲。俱留孫佛、應、正等覺,出現世間,壽四萬歲。俱那含牟尼佛、應、正等覺,出現世間,壽三萬歲。迦葉波佛、應、正等覺,出現世間,壽二萬歲。我化五濁眾生,壽百歲故。」

爾時,世尊重說頌曰:

「毘婆尸如來、  尸棄、毘舍浮、
 俱留孫世尊、  俱那含、迦葉,
 如是出世時,  各自人壽量,
 八萬、次七萬、  六萬及四萬、
 三萬至二萬,  如是釋迦佛,
 而出於五濁,  人壽一百歲。」

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ ấy xong, liền bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “ Các thầy hãy lắng nghe kỹ! Nay Ta sẽ nói về cha mẹ, quốc độ, thành quách và các tên gọi của bảy vị Phật Như Lai.

-Đức Phật Tỳ Bà Thi cha tên là vua Mãn Độ Ma, mẹ cũng tên là Mãn Độ Ma, nước thành cũng có tên là Mãn Độ Ma.

– Đức Thi Khí Như Lai, cha tên là vua A Lỗ Na, mẹ cũng tên A Lỗ Na, thành tên là A Lỗ Bà Đề. 

– Đức Tỳ Xá Phù Như Lai cha tên là vua Tô Bát La Đề Đô, mẹ tên là Bát La Bà Bà Đề thành tên là A Nỗ Bát Ma.

– Đức Phật Câu Lưu Tôn cha tên là Dã Ni Dã Na Đa mẹ tên là Vĩ Xá Già vua tên là Sát Mâu Sát Ma thành tên là Sát Ma. 

– Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni cha tên là Dã Ni Dã Na Đổ, mẹ tên là Ô Đa La  vua tên là Du Bộ thành tên là Du Bà Bà Đề. 

– Đức Phật Ca Diếp, cha tên là Tô Mạt La Hạ Ma mẹ tên là Mạt La Hạ Ma Du Bạt Đa vua tên là Cát Lợi Kế thành tên là Ba La Nại. 

– Còn Ta nay là bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, cha tên là Tịnh Phạn Vương mẹ tên là Ma Da phu nhân thành tên là Ca Tỳ La Vệ.”

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來父母、國城種種名字。毘婆尸佛,父名滿度摩王,母名滿度摩,帝城亦名滿度摩。尸棄如來,父名阿嚕拏王,母同名阿嚕拏,城名阿嚕嚩帝。毘舍浮如來,父名穌鉢囉底都王,母名鉢囉婆嚩底,城名阿努鉢麼。俱留孫佛,父名野倪也那多,母名尾舍佉,王名剎謨剎摩,城名剎摩。俱那含牟尼佛,父名野倪也那覩,母名烏多囉,王名輸部,城名輸婆嚩帝。迦葉如來,父名穌沒囉賀摩,母名沒囉賀摩虞鉢多,王名訖里計,城名波羅奈。我今應、正等覺,父名淨飯王,母名謨訶摩耶,城名迦毘羅。」

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ tụng rằng:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Xuất thân của Phật kia 

Cha là Mãn-độ-ma 

Mẹ Mãn-độ-ma đế

Kinh đô thành quách lớn 

Cũng tên Mãn-độ-ma

Cõi nước đều hưng thịnh

Nhân dân thường an vui

Thi-khí Phật Thế Tôn 

Cha vua A-lỗ-na 

A-lỗ-na-phược-đế

Là tên mẹ của Phật 

Thành ở cùng một hiệu 

A-lỗ-na-phược-đế

Nhân dân rất mạnh mẽ 

Rất giàu và an ổn 

爾時,世尊重說頌曰:

「毘婆尸如來,  彼佛本生處,
 滿度摩為父,  滿度摩帝母,
 所都大城郭,  亦名滿度摩,
 時豐國富盛,  人民恒快樂。
 尸棄佛世尊,  阿嚕拏王父,
 阿嚕拏嚩帝,  是佛母之名,
 所居城同號,  阿嚕拏嚩帝,
 人民甚熾盛,  大富常安隱。

Tỳ-xá-phù Như Lai 

Cha của Phật tên là 

Tô-bát-la-đế-đô 

Mẹ của Phật tên là 

Bát-la-phược-đế

Tên kinh đô quốc thành 

Là A-nỗ-ba-ma

Dân chúng sống an ổn 

Không có các tại hại

毘舍浮如來,  父王及母名,
 穌鉢囉帝都,  鉢囉婆嚩帝,
 所都之國城,  名阿努波摩,
 其世亦安隱,  一切無災害。

Câu-lưu-tôn Thế Tôn 

Cha của Phật tên là 

Dã-nhi-dã-na-đa

Vĩ-xá-khư là mẹ

Vua Sát-mạc-lợi-ma

Kinh đô thành Sát-ma

Các chúng sanh khi ấy 

Tôn sùng bậc hiền thiện

俱留孫世尊,  彼父所立名,
 野倪也那多,  尾舍佉為母,
 剎謨剎摩王,  都彼剎摩城,
 時彼諸眾生,  崇重於賢善。

Câu-hàm-mâu-ni

Tên cha Phật vốn là 

Dã-nhi-dã-na-đỗ 

Mẹ hiệu Ô-đa-là

Quốc vương tên Thâu-bộ

Thành Thâu-ba phược-đế

Cao rộng rất là đẹp 

Hữu xử tình không khổ não

Cha Phật Ca-diếp-ba

Tô-một-là-hạ-ma

Mẹ là Lập-một-la

Tên Ma-lỗ-bát-đa

Quốc vương Ngật-lý-kế

Đô thành Ba-là-nại

Nhân dân trong nước ấy

Ngày đêm thường an ổn

Nay nơi chỗ ta sanh

Cha là vua Tịnh-phạn

Mẹ Ma-ha-ma-gia

Thành tên Ca-tỳ-la 

Đẳng Chánh Giác vậy đó 

Bảy Phật các Như Lai

Cha mẹ và quốc thành

Phân biệt tên như thế 


 俱那含牟尼,  野倪也那覩,
 而是父之名,  母號烏多囉,
 國王名輸部,  輸婆嚩帝城,
 縱廣多嚴飾,  有情無諸惱。
 迦葉波佛父,  穌沒囉賀摩,
 母立沒囉賀,  摩虞鉢多名,
 訖里計國王,  都波羅奈城,
 其中諸眾生,  晝夜常安隱。
 我今所生處,  淨飯王為父,
 摩訶摩耶母,  城名迦毘羅。
 如是正等覺,  七佛諸如來,
 父母及國城,  分別名如是。」

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ trên xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy hãy lắng nghe! Nay Ta sẽ nói về các vị Thanh Văn đệ tử của bảy vị Phật Như Lai. Đệ tử đại trí tuệ của Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên Khiếm-nã-để-tả là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn. Vị đại đệ tử trí tuệ của Đức Thi-khí Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên là Bộ Tam-bà-bà, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn. Vị đệ tử trí tuệ của Đức Tỳ-xá-phù Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên là Dã-thù-đa-la, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn. Vị đại đệ tử trí tuệ của Đức Câu-lưu-tôn Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên là Tán-nhĩ-bà, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn. Vị đại đệ tử trí tuệ của Đức Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên là Tô-lâu-nô-đa-la, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn. Vị đại đệ tử trí tuệ của Đức Ca-diếp Phật Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, tên là Bà-la-đặc-bà-nhạ, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn.

Nay, vị đại đệ tử trí tuệ của Ta, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Xá-lợi-phất, là người đứng đầu trong hàng Thanh Văn.”

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來聲聞弟子。毘婆尸如來、應、正等覺大智弟子,名欠拏底寫,聲聞中第一。尸棄如來、應、正等覺大智弟子,名部三婆嚩,聲聞中第一。毘舍浮如來、應、正等覺大智弟子,名野輸多囉,聲聞中第一。俱留孫如來、應、正等覺大智弟子,名散[口*爾]嚩,聲聞中第一。俱那含牟尼如來、應、正等覺大智弟子,名穌嚕努多囉,聲聞中第一。迦葉波如來、應、正等覺大智弟子,名婆囉特嚩惹,聲聞中第一。我今應、正等覺大智弟子,名舍利弗,聲聞中第一。」

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng:

Tỳ-bà-thi Như Lai

Có đệ tử đại trí 

Tên Khiếm-nã-để-tả

Thi-khí Phật Thế Tôn 

Có đệ tử đại trí 

Tên Bộ- tam-bà-phược

Tỳ-xá-phù Như Lai,

Có đệ tử đại trí,

Tên Dã-thâu-đa-ra.

Câu-lưu-tôn Như Lai,

Có đệ tử đại trí,

Tên là Tán-nhĩ-phược.

Câu-na-hàm Mâu-ni,

Có đệ tử đại trí,

Tô-rô-noa-đa-ra.

Phật Thế Tôn Ca-diếp,

Có đệ tử đại trí,

Bà-ra-đặc-phược-nhạ.

Nay Ta, Ứng Chánh giác,

Có đệ tử đại trí,

Tên là Xá-lợi-phất.

Bảy đệ tử Phật đó 

Ở trong chúng Thanh văn

Đều là người bậc nhất

爾時,世尊重說頌曰:

「毘婆尸如來,  有大智慧子,
 名欠拏底寫。  尸棄佛世尊,
 有大智慧子,  名部三婆嚩。
 毘舍浮如來,  有大智慧子,
 名野輸多囉。  俱留孫如來,
 有大智慧子,  名曰散[口*爾]嚩。
 俱那含牟尼,  有大智慧子,
 穌嚕努多囉。  迦葉佛世尊,
 有大智慧子,  婆囉特嚩惹。
 我今應、正覺,  有大智慧子,
 名曰舍利弗。  如是七佛子,
 於諸聲聞中,  各各為第一。」

Khi đó , Thế Tôn nói kệ ấy xong, bảo đại chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy hãy lắng nghe! Nay ta nói các vị thị giả đệ tử của bảy vị Phật Như Lai. Vị thị giả của Đức Tỳ-bà-thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là A-thâu-ca. Vị thị giả của Đức Thi-khí Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Sát-ma-ca-lỗ. Vị thị giả của Đức Tỳ-xá-phù Phật, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Ưu-ba-xa-đẩu. Vị thị giả của Đức Câu-lưu-tôn Phật, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Mạt-đề-du. Vị thị giả của Đức Câu-na-hàm Mâu-ni Phật, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Tu-lâu-đế-lị-da. Vị thị giả của Đức Ca-diếp Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác tên là Tát-lợi-bà-mật-đát-la. Nay, thị giả của Ta – bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác tên là A-nan-đà.”

Lúc bấy giờ, Thế Tôn lại trùng tuyên bài kệ như sau:

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來侍者弟子。毘婆尸如來、應、正等覺侍者,名阿輸迦。尸棄如來、應、正等覺侍者,名剎摩迦嚕。毘舍浮佛、應、正等覺侍者,名烏波扇覩。俱留孫佛、應、正等覺侍者,名沒提踰。俱那含牟尼佛、應、正等覺侍者,名穌嚕帝里野。迦葉如來、應、正等覺侍者,名薩里嚩蜜怛囉。我今應、正等覺侍者,名阿難陀。」

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng: 

Phật tử A-thâu-ca

Cùng Sát-ma-ca-lỗ 

Và Ô-ba-phí đỗ

Một-đề-thâu-chi-giả

Tô-lô-đế-lý-dã

Tô-phược-mật-đát-la 

Và A-nan-đà kia

Đều là thị giả Phật 

Thường hành tâm từ bi

Thành tựu Tam-ma-địa 

Thông đạt các pháp tướng

Đầy đủ đại trí huệ 

Đa văn mà thông minh

Là thầy trong đại pháp

Hàng bậc nhất trong chúng

Nỗi tiếng khắp mười phương 

Trời người đều quy kính 

Sức tinh tấn bền chắc

Đoạn hết các phiền não 

Chứng quả không sanh diệt 

Nương hầu Phật Thế Tôn 

Hằng được lợi ích mình 

Các Như Lai như thế 

Thành tựu chơn Phật tử

爾時,世尊重說頌曰:

「佛子阿輸迦,  剎摩迦嚕等,
 并烏波扇覩,  沒提踰之者,
 穌嚕帝里野,  薩嚩蜜怛囉,
 及彼阿難陀,  皆為佛侍者。
 常行慈悲心,  成就三摩地,
 通達諸法相,  具足大智慧,
 多聞而聰敏,  為大法之師,
 眾中居第一,  名聞於十方。
 人天皆歸敬,  精進力堅固,
 斷盡諸煩惱,  而證無生滅。
 承侍佛世尊,  恒獲於己利,
 如是諸如來,  成就真佛子。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!我今復說七佛如來所度聲聞之眾。毘婆尸如來第一會說法,有六萬二千苾芻得阿羅漢果,第二會說法,有十萬苾芻得阿羅漢果,第三會說法,有八萬苾芻得阿羅漢果。尸棄如來第一會說法,十萬苾芻得阿羅漢果,第二會說法,八十億苾芻得阿羅漢果,第三會說法,七萬苾芻得阿羅漢果。毘舍浮如來,第一會說法,八萬苾芻得阿羅漢果,第二會說法,七萬苾芻得阿羅漢果,第三會說法,六萬苾芻得阿羅漢果。

「俱留孫如來一會說法,四萬苾芻得阿羅漢。俱那含牟尼佛一會說法,三萬苾芻得阿羅漢果。迦葉如來一會說法,二萬苾芻得阿羅漢果。我今一會說法,一千二百五十苾芻得阿羅漢果。」

Lúc bấy giờ, Thế Tôn sau khi thuyết xong bài kệ, liền bảo với đại chúng Tỳ-kheo:”Các thầy hãy lắng nghe ! Nay ta nói về số lượng Thanh văn đệ tử được hóa độ bởi bảy vị Phật Như Lai.

Tỳ-bà-thi Như Lai: Trong hội đầu tiên thuyết pháp, có sáu vạn hai ngàn  vị Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Trong hội thứ hai, có mười vạn Tỳ-kheo chứng A-la-hán. Trong hội thứ ba thuyết pháp có tám vạn Tỳ-kheo đắc A-la-hán quả. Đức Thi-khí Như Lai: Trong hội thuyết pháp đầu tiên, có trăm ngàn Tỳ-kheo chứng A-la-hán. Trong hội thứ hai, có 8 ức (800 triệu) Tỳ-kheo đắc A-la-hán. Trong hội thứ ba, có 70.000 Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán. Đức Tỳ-xá-phù Như Lai: Trong hội đầu tiên, có 80.000 Tỳ-kheo chứng A-la-hán. Trong hội thứ hai, có 70.000 Tỳ-kheo đắc quả. Trong hội thứ ba, có 60.000 Tỳ-kheo thành A-la-hán. Đức Câu-lưu-tôn Như Lai: Trong một hội thuyết pháp có 40.000 Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Đức Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai: Trong một hội thuyết pháp, có 30.000 Tỳ-kheo chứng A-la-hán. Đức Ca-diếp Như Lai: Trong một hội thuyết pháp có 20.000 Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán. Ta – hiện nay là Phật Thích-ca Mâu-ni: Trong một hội thuyết pháp, có 1.250 vị Tỳ-kheo chứng quả A-la-hán.”

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng: 

Tỳ-bà-thi Như Lai

Thi-khí, Tỳ-xá-phù

Câu-lưu-tôn Thế Tôn 

Câu-na-hàm, Ca-diếp

Và Thích Ca Mâu Ni

Độ được chúng Thanh Văn 

Có số bảy mươi ức

Chín vạn ba ngàn người 

Hai trăm năm mươi người 

Đều đắc A-la-hán 

Không còn thọ thân sau.

Khi đó, Đức Thế Tôn nói kệ xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy hãy lắng nghe! Đức Phật Tỳ-bà-thi, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-xá-phù, cho đến ta hiện nay hiện ở đời, trụ trì giáo hóa, tuyên thuyết chánh pháp, điều phục chúng sanh, giữ gìn giới hạnh, làm bậc mô phạm, thọ trì y bát, cầu chứng Bồ-đề, không có pháp mầu nào khác biệt. 

爾時,世尊重說頌曰:

「毘婆尸如來、  尸棄、毘舍浮、
 俱留孫世尊、  俱那含、迦葉,
 并釋迦牟尼,  各各出世時,
 所度聲聞眾,  數有七十億,
 九萬餘三千,  二百五十人,
 皆得阿羅漢,  不受於後有。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝等諦聽!毗婆尸佛、尸棄佛、毘舍浮佛,乃至我今出現世間,住持教化,宣說法教,調伏有情,戒行儀範,受持衣鉢,求證菩提,無有少法而各別異。」

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng: 

Kiếp quá khứ đến nay  

Tỳ-bà-thi,các Phật 

Chúng tỳ kheo độ được 

Thành tựu đại trí tuệ

Tinh cần tu chánh đạo

Pháp phần đạo Bồ- đề

Năm căn và năm lực 

Bốn niệm bốn thần túc

Bảy giác, tám chi phần

Cùng với Tam-ma-địa 

Các căn, mắt tịch tĩnh

Thông suốt nơi tạng pháp

Khai ngộ các quần sanh

Tăng trưởng nơi tuệ mạng

Trong Hiền kiếp như thế 

Đều khen chưa từng có 

Phật dùng đại trí tuệ 

Tự giác và giác tha

Oai đức thần thông lớn

Sở thuyết đều như vậy.

爾時,世尊而說頌曰:

「如是過現劫,  毗婆尸等佛,
 所度眾苾芻,  成就大智慧,
 勤修於正道,  菩提之分法,
 五根與五力,  四念、四神足,
 七覺、八聖支,  及彼三摩地,
 寂靜眼等根,  通達於法藏,
 開悟諸群生,  增長於慧命,
 如是賢劫中,  皆嘆未曾有。
 佛以大悲智,  自覺覺於他,
 威德大神通,  所說皆如是。」

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, cùng với các Tỳ-kheo liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trở về vườn Cấp Cô Độc. Qua đêm đó rồi, đến lúc rạng sáng.

Chúng Tỳ-kheo từ chỗ ở ban đầu, đi đến đạo tràng Ca-lỵ-lê, hỏi nhau rằng:

“Đức Như Lai trong quá khứ đã nhập đại Niết-bàn, lìa tất cả hí luận, dứt hẳn luân hồi, mà không hề có lỗi lầm.

Vị đại trượng phu như thế, có trí tuệ như thế, trì giới như thế, tam-ma-địa như thế, giải thoát như thế, uy đức như thế, dòng họ như thế, giáng sinh xuống đời để lợi lạc chúng sinh, thật là điều hy hữu, không thể nghĩ bàn.”

Khi ấy, Thế Tôn biết tâm niệm của các thầy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến đạo tràng Ca-lý -lê, ngồi kết già, bảo các thầy rằng:

“Ý các thầy nghĩ thế nào?”

Lúc đó, các Tỳ-kheo bạch Thế Tôn rằng:

“Chúng con nghe nói rằng đức Như Lai trong quá khứ đã nhập đại Niết-bàn, lìa tất cả hí luận, dứt hẳn luân hồi, không hề có lỗi lầm.

Bậc đại trượng phu như thế, có trí tuệ như thế, trì giới như thế, tam-ma-địa (thiền định) như thế, giải thoát như thế, oai đức như thế, dòng họ như thế, thị hiện ở đời để lợi lạc chúng sanh thật là điều hy hữu, không thể nghĩ bàn.”

Phật bảo: 

“Các thầy nói như vậy, vì lý do gì?”

Các Tỳ-kheo bạch rằng:

“Phật có pháp giới thanh tịnh, chứng trí giác chân thật, không có gì không thông suốt, chúng con nguyện được nghe Phật giảng giải.”

Phật bảo: 

“Này các tỳ kheo! Các thầy hãy lắng nghe! nay ta sẽ nói.

Vào đời quá khứ, có một vị đại quốc vương tên là Mãn Độ Ma, hoàng hậu của vua ấy tên là Mãn Độ Ma Đế.

Khi ấy, Đức Phật Tỳ-bà-thi từ trời Đâu-suất thị hiện ở Diêm-phù-đề, vào thai mẹ, an trụ trong thai tạng, phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp thế gian, không còn tối tăm.

Những nơi ác thú, tất cả địa ngục, nơi mà ánh sáng mặt trời, mặt trăng cũng không thể chiếu đến, nơi ánh sáng Phật chiếu đến liền được đại quang minh, các chúng sanh ở đó cùng thấy nhau và hỏi lời rằng:

‘Vì sao nơi đây lại có chúng sanh khác?

爾時,世尊說此偈已,與諸苾芻即從座起,還給孤獨園,過是夜已,至平旦時。

諸苾芻眾,從其本舍,往迦里梨道場,互相推問:「過去如來入大涅槃,離諸戲論,永斷輪迴,而無過失。如是大丈夫,有如是智慧,如是持戒,如是三摩地,如是解脫,如是威德,如是種族,降世利生,甚為希有不可思議。」

爾時,世尊知諸苾芻心之所念,從座而起,詣迦里梨道場,結跏趺坐,告苾芻眾言:「於意云何?」時諸苾芻白世尊言:「我等聞說,過去如來,入大涅槃,離諸戲論,永斷輪迴,而無過失,如是大丈夫,有如是智慧,如是持戒,如是三摩地,如是解脫,如是威德,如是種族,降世利生,甚為希有不可思議。」佛言:「苾芻,汝今所說,何以故?」苾芻白言:「佛有清淨法界,證真覺智,無不了知,願為解說。」

佛言:「苾芻,汝等諦聽,我今說之。於過去世,有大國王名滿度摩,彼王妃后名滿度摩帝。爾時,毗婆尸佛從兜率天降下閻浮,入於母腹住胎藏中,放大光明照諸世間無有幽暗,而諸惡趣一切地獄,日月威光亦不能照,佛光所及忽得大明,而彼有情互得相見,即發聲言:『何故此間有別眾生?』」

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ-tát từ Đâu-suất 

Thị hiện ở Diêm-phù

Như mây cũng như gió

Thoáng chốc vào thai mẹ

Thân phóng ánh sáng lớn 

Chiếu sáng cõi người trời 

Địa ngục núi Thiết Vi

Thảy đều không còn tối

Các cảnh giới của Phật 

Theo trụ nơi thân mẹ

Như các chúng tiên lớn 

Cũng đều đến nhóm họp

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩從兜率,  下降閻浮時,
 如雲亦如風,  須臾至母腹,
 身放大光明,  照耀人天界,
 地獄鐵圍山,  皆悉無幽暗。
 佛剎眾境界,  隨住於母身,
 如是大仙眾,  亦來俱集會。」

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy hãy nên lắng nghe! 

Vị Bồ Tát Ma-ha-tát ấy, từ cõi trời Đâu-suất thị hiện ở Diêm-phù, lúc vào thai mẹ, Dạ-xoa Bộ Ma lớn tiếng xướng rằng:

‘Vị Đại Bồ Tát này, đại oai đức, là bậc đại trượng phu, bỏ thân trời, thân người và thân A-tu-la, ở trong thai mẹ mà thọ thân người.’

Cũng vậy, chư thiên cõi Tứ Thiên Vương, cõi Đao-lợi, cõi Dạ-ma, cho đến cõi trời Phạm Phụ v.v., nghe lời xướng rằng:

‘Bồ Tát giáng thần, ở trong thai mẹ.’

Tất cả đều đến nhóm họp.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今th諦聽!彼菩薩摩訶薩從兜率天下降閻浮,入母胎時,部摩夜叉高聲唱言:『此大菩薩大威德大丈夫,捨天人身及阿修羅身,處彼母胎而受人身。』如是四天王天,忉利天,夜摩天乃至梵輔等天聞此唱言:『菩薩降神處母胎中。』皆悉來集。」

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ-tát từ Đâu-suất

Khi giáng thần thai mẹ 

Bộ-ma đại Dạ-xoa 

Xướng ngôn Bồ-tát kia 

Xả bỏ thân cõi trời 

Và thân A-tu-la 

Ở trong thai mẹ đây

Liền thọ báo thân người 

Tứ vương, trời Đâu-lợi

Dạ-ma và Đâu-suất

Cho đến cõi Phạm thế

Thảy đều nghe việc này 

Bồ-tát xuống nhân gian 

Sắc vàng chơn vi diệu 

Chư thiên đến nhóm họp 

Lòng vô cùng vui mừng 

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩從兜率,  降神母胎時,
 部摩大夜叉,  唱言彼菩薩,
 棄捨天中身,  及於修羅質,
 處此母胎中,  即受人世報。
 四王、忉利天、  夜摩及兜率,
 乃至於梵世,  皆悉聞斯事,
 菩薩降人間,  微妙真金色,
 諸天悉來集,  心懷大喜慶。」

Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói bài kệ này xong, liền bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy hãy lắng nghe! Vị Bồ Tát Ma-ha-tát kia, khi từ cõi trời Đâu-suất giáng xuống Diêm-phù-đề,

có bốn vị Đại Thiên Tử, đầy đủ oai đức,

thân mặc giáp trụ, tay cầm cung, dao, 

ủng hộ Bồ Tát, khiến cho người cùng phi nhân đều không thể xâm hại.”

Khi đó, Thế Tôn nói kệ rằng:

Bồ-tát khi giáng trần 

Trời Đao-lợi, Đế Thích

Theo Tứ Thiên Vương kia

Đều có oai lực lớn 

Thân mặc áo giáp vàng

Tay cầm cung dao tên

Mọi lúc thường hộ vệ

Là-sát cùng phi nhân

Không tán làm não hại

An trụ trong bụng mẹ 

Như ở cung điện lớn 

Thường thọ các khoái lạc

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩從兜率天降閻浮時,有四大天子威德具足,身被甲冑,手執弓刀,擁護菩薩,人非人等皆不侵害。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  忉利天帝釋,
 遣彼四天王,  各具大威力,
 身被金甲冑,  手執弓刀槍,
 恒時常衛護。  羅剎非人等,
 不敢作惱害。  安住母腹中,
 如處大宮殿,  恒受諸快樂。」

Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói kệ ấy xong, bảo Tỳ-kheo rằng: “ Các thầy hãy lắng nghe! Vị Bồ Tát Ma-ha-tát kia, khi từ cõi trời Đâu-suất giáng xuống Diêm-phù, nhập vào thai mẹ, thân ấy thanh tịnh, sáng rực chiếu soi, như ngọc ma-ni; tâm mẹ an ổn, không có các khổ nhiệt não.”

Khi ấy, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Bồ Tát ở trong thai,

Thanh tịnh không nhiễm nhơ,

Như viên ngọc lưu ly,

Lại như báu ma-ni.

Quang minh chiếu thế gian,

Như mặt trời khỏi mây,

Thành tựu nghĩa đệ nhất,

Sanh trí tuệ tối thượng.

Khiến mẹ không lo não,

Thường hành các thiện nghiệp,

Hữu tình đều quy ngưỡng,

An nơi Sát-đế-lợi.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩從兜率天下降閻浮處母胎時,其身清淨光明照耀,如摩尼珠,母心安隱無諸熱惱。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩處胎時,  清淨無瑕穢,
 猶如琉璃珠,  亦如摩尼寶,
 光明照世間,  如日出雲翳,
 成就第一義,  出生最上智。
 令母無憂惱,  恒行眾善業,
 有情皆歸仰,  安處剎帝利。」

Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy nay hãy lắng nghe!

Vị Bồ Tát Ma-ha-tát kia, khi từ cõi trời Đâu-suất giáng xuống Diêm-phù-đề, nhập vào thai mẹ, mẹ chưa từng nghe đến các cảnh nhiễm ô của dục sắc và năm trần, mà không khởi tâm chấp trước.”

Lúc bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Bồ Tát ở trong thai

Khiến tâm mẹ thanh tịnh,

Không nghe lời ô nhiễm,

Xa lìa lỗi năm dục.

Dứt trừ gốc tham ái,

Không thọ các khổ não,

Thân tâm thường an ổn,

Thường được sự vui thích.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn nói bài kệ ấy xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các ông nay hãy lắng nghe kỹ!

Vị Bồ Tát Ma-ha-tát kia, khi từ cõi trời Đâu-suất giáng xuống Diêm-phù-đề, nhập vào thai mẹ, người mẹ ấy tự giữ gìn năm giới cận sự:

Một là không sát sinh,

Hai là không trộm cắp,

Ba là không dâm dục,

Bốn là không nói dối,

Năm là không uống rượu.

Bồ Tát từ hông bên phải sanh ra; sau khi mạng chung, người mẹ ấy sanh lên cõi trời.”

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩從兜率天下降閻浮處母胎時,未曾得聞母有染欲色等五塵而無所著。」爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩處胎時,  令母心清淨,
 不聞染污名,  遠離五欲過,
 斷除貪愛根,  不受諸苦惱,
 身心恒安隱,  常得於快樂。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩從兜率天下降閻浮處母胎時,母自受持近事五戒:一不殺生,二不偷盜,三不婬欲,四不妄語,五不飲酒,於其右脇誕生菩薩,母後命終生天界中。」

Lúc bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Bồ Tát ở trong thai,

Mẹ tự giữ năm giới,

Từ hông phải sanh con 

Không có các khổ não.

Ví như trời Đế Thích 

Thọ hưởng năm dục lạc 

Sau khi thân mạng chung 

Chóng sanh về cõi trời.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ ấy xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy nay hãy lắng nghe!

Vị Bồ Tát Ma-ha-tát kia, khi sinh ra từ hông bên phải, đại địa liền chấn động,

thân sắc vàng ròng, lìa sạch cấu nhiễm,

phóng ra đại quang minh chiếu khắp thế gian và mọi cảnh giới, nơi các ác thú, tối tăm, địa ngục, bỗng nhiên rực sáng; chúng sanh đó thấy nhau, mỗi mỗi đều nghi rằng:

‘Vì sao nơi đây có chúng sanh khác?’”

Lúc bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát sanh ra,

Đại địa đều rung động,

Thân tướng như vàng ròng 

Không nhiễm các trần cấu.

Oai đức và thần thông,

Ánh sáng chiếu tất cả,

Chúng sinh nơi tối tăm,

Cùng nhau được thấy mặt.

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩處胎中,  母自持五戒,
 右脇生童子,  無彼諸苦惱,
 譬如天帝釋,  受妙五欲樂,
 於後命終時,  速得生天上。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,大地震動,身真金色離諸垢染,放大光明普照世間一切境界,所有惡趣黑暗地獄忽然大明,彼中眾生互得相見,各各疑云:『何故此間有別眾生?』」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  大地皆震動,
 身相如真金,  不染諸塵垢。
 威德大神通,  光明照一切,
 幽暗業眾生,  而互得相見。」

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

“Khi Bồ-tát ở thai

Mẹ tự giữ năm giới,

Sanh đồng tử hông phải,

Không có các khổ não 

Ví như trời Đế Thích,

Hưởng thọ năm dục lạc

Sau khi thân mệnh chung,

Chóng được sinh lên trời.

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo:

“Các thầy nay hãy lắng nghe ! Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, đại địa chấn động, thân màu vàng ròng, lìa các nhiễm ô, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp cảnh giới thế gian. Tất cả các ác đạo, địa ngục tối tăm, bỗng nhiên sáng rỡ. Chúng sanh trong đó đều thấy lẫn nhau. Mỗi người đều nghi hỏi rằng: “Vì sao ở đây có chúng sang khác?’”

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát giáng sanh 

Đại địa đều chấn động,

Thân tướng như vàng ròng 

Không nhiễm các bẩn dơ

Oai đức thần thông lớn,

Ánh sáng chiếu khắp nơi 

Chúng sanh nghiệp tối tăm,

Nhưng cùng thấy lẫn nhau.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,母無疲困,不坐不臥。爾時菩薩大威德大丈夫,心不昏昧,足不履地,有四大天子捧童子身。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  母意無散亂,
 不坐亦不臥,  自在而適悅。
 威德大丈夫,  心離諸暗昧,
 四天捧其身,  足不履於地。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,身體清淨如瑠璃寶,遠離一切膿血洟唾不淨之物,亦如摩尼珠憍尸迦衣,諸塵垢等而不能著。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  身器悉清淨,
 遠離諸穢惡,  膿血洟唾等,
 譬如憍尸衣,  及彼摩尼寶,
 瑩淨體光明,  塵垢皆不住。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,有二天子,於虛空中降二種水,一冷二溫,沐浴童子。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  空中有二天,
 沐浴童子身,  降彼二種水,
 溫冷各相宜,  表圓於福慧,
 成就大無畏,  普徧視眾生。」

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, Mẹ không mỏi mệt, không ngồi, không nằm. Khi ấy, Bồ-tát, bậc đại oai đức, đại trượng phu tâm không mê muội, chân không đạp đất. Có bốn vị Đại Thiên tử nâng đỡ thân đồng tử. Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát giáng sanh

Tâm mẹ không tán loạn,

Không ngồi cũng không nằm,

Tự tại mà vui thích.

Bậc trượng phu oai đức,

Tâm lìa mọi mê mờ,

Bốn trời nâng thân ngài,

Chân không đạp mặt đất.

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sinh từ hông bên phải, thân thể thanh tịnh như lưu ly, lìa tất cả những vật bất tịnh như mủ, máu, nước mũi, nước miếng,như viên ngọc ma-ni và y phục kiêu-thi-ca, bụi bẩn v.v. không thể dính vào.”

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát giáng sanh

Thân thể đều thanh tịnh,

Xa lìa các ô uế,

Mủ, máu, mũi, nước miếng.

Như y kiêu-thi-ca,

Và viên ngọc ma-ni,

Thân sáng sạch rực rỡ,

Bụi bặm đều không bám.

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, có hai vị Thiên tử, từ trong hư không rưới xuống hai dòng nước: Một lạnh, hai ấm, tắm rửa cho đồng tử.”

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát giáng sanh

Trên không hai vị trời,

Tắm rửa thân đồng tử,

Rưới xuống hai dòng nước,

Lạnh ấm đều thích nghi

Biểu hiện tròn Phước tuệ,

Thành tựu đại vô úy,

Nhìn khắp mọi chúng sanh.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,具三十二相,身色端嚴,眼根清淨見十由旬。」

爾時,世尊而說頌曰:

「菩薩降生時,  諸相悉具足,
 目淨復端嚴,  遠視十由旬。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「彼菩薩摩訶薩右脇生時,見忉利天,彼天帝釋見此童子是真佛身,執白傘蓋覆童子身,寒熱風塵一切諸惡而不能侵。」

爾時,世尊而說頌曰:

「童子初生時,  遠視於忉利,
 帝釋復覩之,  手執白傘蓋,
 即來覆其身,  寒熱風日等,
 及彼諸毒惡,  一切不能侵。」

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,本母乳母養母,及諸宮人圍繞保護,澡浴塗香種種承奉。」

爾時,世尊而說頌曰:

「童子初生時,  乳養有三母,
 及彼諸宮人,  四面常圍繞,
 澡浴復塗香,  令彼常安隱,
 如是晝夜中,  無暫而捨離。」

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy giờ đây hãy lắng nghe kỹ!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, đủ ba mươi hai tướng, thân sắc đoan nghiêm, căn mắt thanh tịnh, thấy xa mười do-tuần.” Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi Bồ-tát giáng sanh 

Các tướng đều đầy đủ,

Mắt sạch lại đoan nghiêm,

Nhìn xa mười do-tuần.

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:”Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, thấy cõi trời Đao-lợi, trời Đế Thích kia biết đồng tử là thân Phật, nên cầm lọng trắng che thân. Lạnh nóng, gió, bụi cùng tất cả điều ác không thể xâm phạm. 

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

“Khi đồng tử mới sanh

Nhìn xa đến Đao-lợi,

Đế Thích lại thấy ngài,

Tay cầm lọng trắng lớn,

Liền đến che thân Ngài 

Lạnh, nóng, gió, mặt trời,

Và các điều độc ác,

Tất cả không xâm hại.”

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:

“Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, mẹ ruột, nhũ mẫu, dưỡng mẫu, cùng các cung nữ vây quanh bảo hộ, tắm rửa, xoa hương, các thứ cung phụng.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi đồng tử mới sanh

Có ba mẹ nuôi dưỡng,

Cùng các cung nữ kia,

Bốn phía thường vây quanh,

Tắm rửa lại xoa hương,

Làm cho luôn yên ổn,

Suốt cả ngày lẫn đêm,

Không lúc nào lìa xa.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,身色端嚴,具三十二相。滿度摩王,即召相師占其童子,婆羅門言:『若令在家受灌頂輪王之位,主四天下,具足千子威德無畏,不以兵杖弓劒能降他軍;若復出家堅固修行,成正等覺。』」

爾時,世尊而說頌曰:

「相師婆羅門,  占此天童子,
 告彼父王言,  具相三十二,
 如月出眾星,  世間甚希有。
 若常在宮殿,  必紹轉輪位,
 主領四大洲,  復生千太子;
 如是出家時,  速成無上覺。」

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, thân sắc đoan nghiêm, đầy đủ ba mươi hai tướng. Vua Mãn-độ-ma liền triệu thầy tướng đến xem tướng cho đồng tử. Bà-la-môn nói: “Nếu cho ở tại gia, thọ vị Quán-đảnh Luân Vương, thống lãnh bốn thiên hạ, có đủ ngàn con, oai đức vô úy, không dùng binh trượng, cung, kiếm mà hàng phục được quân khác;

Nếu xuất gia, bền lòng tu hành, thì sẽ thành Chánh Đẳng Giác.’”

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Thầy tướng Bà-la-môn,

Xem tướng thiên đồng tử,

Nói với vua cha rằng,

Đủ ba mươi hai tướng 

Như trăng giữa muôn sao,

Ở đời rất hiếm có.

Nếu thường ở cung điện,

Ắt nối ngôi Luân Vương,

Thống lãnh bốn châu lớn 

Lại có ngàn thái tử;

Nếu xuất gia tu hành 

Chóng thành Vô Thượng Giác.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩右脇生時,身真金色諸相端嚴,如水生蓮塵垢不著,一切有情瞻仰不足。所出言音微妙細密清雅流美,譬如雪山迦尾囉鳥,食花而醉,所出音聲雅妙清響,眾生聞者無不愛樂,童子言音亦復如是。」

爾時,世尊而說頌曰:

「童子初生時,  身相真金色,
 亦如紅蓮華,  塵垢不能染。
 言音甚微妙,  如迦尾羅聲,
 眾人得聞之,  愛樂無厭足。」

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng:”Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát sanh ra từ hông bên phải, thân sắc màu vàng ròng, các tướng đoan nghiêm, như hoa sen mọc trong nước, không nhiễm bụi bẩn. Tất cả hữu tình chiêm ngưỡng không chán đủ. Âm thanh lời nói phát ra vi diệu, tinh tế, thanh nhã, lưu loát đẹp đẽ, Ví như chim Ca-vĩ-la trên núi Tuyết, hút mật hoa rồi say, Âm thanh phát ra thanh nhã, vi diệu, tiếng vang trong trẻo, Chúng sinh nghe được, không ai là không yêu thích, vui mừng. Tiếng nói của đồng tử cũng lại như vậy.”

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

Khi đồng tử mới sanh

Thân tướng màu vàng ròng 

Cũng như hoa sen đỏ,

Bụi nhơ không thể nhiễm.

Lời nói rất vi diệu,

Như tiếng chim Ca-vĩ,

Mọi người nghe được rồi,

Yêu thích không hề chán.

爾時,世尊說此偈已,告苾芻眾言:「汝今諦聽!彼菩薩摩訶薩為童子時,遠離邪妄,心意純直,自覺覺他恒行正法,眾人侍奉,如帝釋天主宗敬父母,由此名為毘婆尸。」

爾時,世尊而說頌曰:

「毘婆尸如來,  為彼童子時,
 通達大智慧,  遠離於邪妄。
 自覺及覺他,  修習正法行,
 眾人常愛敬,  如彼帝釋天。
 侍養於父母,  名聞滿世間,
 是名毘婆尸,  利益諸含識。」

佛說七佛經

Khi ấy, Thế Tôn nói bài kệ này xong, bảo chúng Tỳ-kheo rằng: “Các thầy nay hãy lắng nghe!

Khi Bồ-tát Ma-ha-tát, lúc còn là đồng tử, xa lìa tà vọng, tâm ý thuần trực, tự giác, giác tha, thường hành chánh pháp, được mọi người cung phụng như Thiên chủ Đế Thích tôn kính cha mẹ, Do đó có tên là Tỳ-bà-thi.

Khi ấy, Thế Tôn nói kệ rằng:

“Tỳ-bà-thi Như Lai,

Khi còn là đồng tử,

Thông đạt đại trí tuệ,

Xa lìa các tà vọng.

Tự giác và giác tha,

Tu hành theo chánh pháp,

Mọi người thường thương kính 

Như Thiên chủ Đế Thích.

Phụng dưỡng cha và mẹ,

Danh vang khắp thế gian,

Nên gọi Tỳ-bà-thi,

Lợi ích các hàm thức.”

Phật Thuyết Kinh Bảy Phật 

Next
Next

Thần Tăng Trí Khải