Thần Tăng Trúc Đạo Sinh

Trúc Đạo Sinh, họ Nguỵ, quê ở Cự Lộc. Sư thông minh hiểu biết như thần. Cha của sư biết con mình có khí phách phi phàm nên rất thương quý. Sau gặp sa môn Trúc Pháp Thái, sư bèn bỏ tục xuất gia. Ở tuổi đang học mà sư đã đăng đàn thuyết pháp, nói năng vấn biện ngôn từ trong sáng như ngọc, dẫu các học tăng thông đạt hay các danh sĩ đương thời cũng đều lắng nghe, không dám đối kháng. Hai mươi tuổi, sư thọ giới Cụ túc, khí chất thông đạt ngày càng sâu. Ban đầu, sư vào Lô Sơn ẩn tu bảy năm, thường lấy then chốt tuệ giải vào đạo làm gốc, nghiên tầm các kinh, muôn dặm theo thầy, không sợ lao khổ. Sau sư đến Trường An tham học với Đại sư Cưu La Thập. Tăng chúng ở Quang Trung đều cho sư có chỗ ngộ khác thường. Sau sư trụ ở chùa Thanh Viên. Thái Tổ Văn Hoàng đời Tống rất kính trọng sư. Thái Tổ thiết hội, đích thân cùng chúng ngồi nơi chiếu trải đất. Dọn thức ăn ra lâu, mọi người nghi xế chiều. Đế nói: Mới giữa trưa thôi. Sư nói: Trời trong xanh, thiên tử nói mới giữa trưa, Sư bèn lấy bát thọ trai, khi đó cả chúng hội đều theo sư không ai không thán phục! Lời nói của sư rất tâm đắc . Khi đó, kinh Niết Bàn chưa được truyền đến. Sư cho rằng: “ Xiễn-đề đều sẽ thành Phật”. Do kinh này chưa truyền đến hết. Nên một số sa môn văn tự lúc đó đã vu khống sư bị tà kiến, bèn tẫn xuất. Sư thề với mọi người rằng: Nếu điều tôi nói không hợp với nghĩa kinh thì xin tấm thân hiện tại chuốc lấy quả báo xấu ác. Nếu khế hợp với tâm Phật thì nguyện khi xả bỏ thọ mạng được dựa vào toà sư tử. Nói xong, sư phủi áo vào núi Hổ Khâu ở đất Ngô dựng đá làm học đồ rồi giảng kinh Niết Bàn đến chỗ Xiễn Đề có tánh Phật, sư hỏi: “ Những gì ta nói có hợp tâm Phật không”? Đá đều gật đầu. Mùa hè năm đó, sấm chớp ở điện Phật Thanh Viên. Rồng bay lên trời, bóng quang in lên bức tường phía Tây của điện Phật. Nhân đó đổi tên chùa là Long Quang. Người bấy giờ than rằng: “Rồng đã bay rồi chắc chắn sư Đạo Sinh cũng sẽ đi thôi”. Không bao lâu, sư đến Lô Sơn ẩn tu, chư tăng ở Lô Sơn đều kính phục. Sau đại bản Niết Bàn truyền đến Nam Kinh. Quả thật kinh nói: Xiễn Đề có tánh Phật hợp với điều mà sư đã tuyên thuyết. Khi được kinh này, sư liền giảng giải. Đến niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một (434) đời Tống, ở Lô Sơn, sư thăng toà giảng kinh Niết Bàn. Lúc sắp giảng xong, thính chúng bỗng thấy đuôi cây phất trần chợt rời ra và rơi xuống. Sư ngồi an nhiên trên pháp tòa thị tịch.

Tu Viện An Lạc, California, 3:00 giờ sáng 13-10-2025
Trúc Nguyên-Thích Chúc Hiền (cẩn dịch)


道生
竺道生。本姓魏氏。鉅鹿人。生而頴悟聰哲若神。其父知非凡器愛而異之。後值沙門竺法汰。遂改俗歸依。及年在志學便登講座。吐納問辯辭清珠玉。雖宿望學僧當時名士。皆慮挫詞窮莫敢詶抗。年至具戒器鑒日深。初入廬山幽栖七年。常以入道之要慧解為本。故鑽研群經。萬里從師不憚疲苦。後遊長安從什公受業。關中僧眾咸謂神悟。還止青園寺。宋太祖文皇深加歎重。後太祖設會。帝親同眾御于地筵。下食良久。眾咸疑日晚。帝曰。始可中耳。生曰。白日麗天。天言始中。何得非中。遂取鉢便食。於是一眾從之。莫不歎其樞機得衷。時涅槃後品未至。生曰。闡提皆當成佛。此經來未盡耳。於是文字之師。誣生為邪擯而遣之。生白眾誓曰。若我所說不合經義。請於見身即見惡報。若實契佛心願捨壽時據師子座。竟拂衣入吳之虎丘山。竪石為徒講涅槃經。至闡提有佛性處曰。如我所說契佛心否。群石皆首肯之。其年夏雷震青園佛殿。龍昇于天光影西壁。因改寺名曰龍光。時人歎曰。龍既去生必行矣。俄而投迹廬山肖影巖岫。山中僧眾咸共敬服。後涅槃大本至于南京。果稱闡提悉有佛性。與生所說若合符契。生既獲斯經。尋即講說。以宋元嘉十一年。於廬山升于法座講說涅槃。將畢忽見麈尾紛然而墜。端坐正容隱几而卒

Next
Next

Phật Thuyết Kinh Bảy Đức Phật | 佛說七佛經